Tranh sơn mài nổi tiếng Việt Nam

Tranh sơn mài nổi tiếng Việt Nam. Việc phát hiện và phát triển kỹ thuật sơn mài đã tạo ra ảnh hưởng và tác động lớn đến hội họa Việt Nam nói riêng và hội họa châu Á nói chung. Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Đô Cung, Nguyễn Sang, Nguyễn Tử Nghiêm, Phan Kế An, Lê Quốc Lộc, Nguyễn Khang, Trần Đình Thọ… là những cái tên tiêu biểu khi nhắc đến tranh sơn mài.

Họa sĩ Nguyễn Gia Trí (1908 – 1993)

Trong số các tác phẩm nổi tiếng phải kể đến bức tranh sơn mài “Lễ hội đầu năm” của họa sĩ Nguyễn Gia Trí, người được mệnh danh là “cha đẻ của tranh sơn mài Việt Nam hiện đại”.

Người cha đẻ những bức tranh sơn mài, tranh phong cảnh tân thời của Việt Nam

Nghệ sĩ Nguyễn Gia Trí (1908 – 1993) sinh ra tại xã Trường Yên, huyện Chương Mỹ, Hà Tây (nay là Hà Nội). Năm 1936, ông tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Họa sĩ Nguyễn Gia Trí là người đi đầu trong thời hoàng kim của đồ sơn mài từ năm 1938 đến năm 1944. Các tác phẩm của anh vừa thật vừa lung linh, ẩn mình giữa các lớp sơn.
Ông thường vẽ phụ nữ và phong cảnh, và có phong cách xây dựng các bức tranh dưới dạng màn hình, sắp xếp các hình ảnh trên nhiều tấm riêng biệt và sau đó ghép chúng lại với nhau. Các tác phẩm của họa sĩ được coi là đỉnh cao của nghệ thuật vẽ tranh sơn mài, vẫn còn giá trị cho đến ngày nay. Cũng trong thời gian này, tác phẩm khổ lớn Lưu Nguyễn vào Thiên Thái của ông đã được người Pháp mua lại và trưng bày tại Phủ Toàn quyền Pháp ở Hà Nội – nay là Phủ Chủ tịch – vẫn còn được treo ở đó.
Ông là người tiên phong trong việc biến tranh sơn mài từ trang trí thành kiệt tác nghệ thuật và từ đó ông được gọi là “cha đẻ của tranh sơn mài Việt Nam hiện đại”. Nguyễn Gia Trí là một trong những họa sĩ nổi tiếng đi đầu trong việc tạo ra một xu hướng nghệ thuật mới cho Việt Nam, với những đường nét thanh lịch và những ý tưởng mới về nghệ thuật sơn mài. Ông kết hợp khắc với các phương pháp sơn mài mới, đồng thời áp dụng các nguyên tắc cấu trúc hội họa phương Tây, để tạo ra những bức tranh hiện đại mang đậm nét dân tộc.
tranh son mai 1
Danh họa Nguyễn Gia Trí

Họa sĩ Nguyễn Gia Trí chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực và ấn tượng châu Âu, đến phong cách mực in, dân gian và truyền thống mỹ thuật của châu Á và Việt Nam. Trong thập kỷ cuối đời, ông cũng đào sâu vào chủ nghĩa trừu tượng, một phong cách mà ông đã thử nghiệm trong một số tác phẩm từ năm 1954.
Trong công văn đề ngày 28/3/1976, Nguyễn Gia Trí viết: “Cái chính là đúng hướng vẽ. Công nghệ giống như chiếc xe đạp bạn sử dụng để đi. Chú ý nhiều đến chiếc xe sẽ trở thành một thợ cơ khí. Phải có xe riêng, mọi công nghệ chỉ là một chiếc xe. Khi vẽ, mọi định kiến phải được loại bỏ. Khi định kiến đầy, bất cứ thứ gì được đổ vào sẽ chỉ tràn ra. Mỗi vật liệu đều có điểm mạnh và điểm yếu riêng. Phải biết tận dụng nó” (trích từ Họa sĩ Nguyễn Gia Trí về sáng tạo, họa sĩ Nguyễn Xuân Việt ghi lại, NXB Văn học, 1998)

Một số bức tranh sơn mài đáng chú ý của Nguyễn Gia Trí giai đoạn 1938 đến trước năm 1945 là: Chợ Bố, Dốc Mơ, Bên Hồ Gươm, Đêm Bồ Tùng Linh, Ảnh khỏa thân, Cảnh Thiên Thái, Chùa Thầy, Đèn Trung thu, Cô gái trẻ bên hồ sen, Giáng sinh… Đặc biệt là bức tranh Cô gái trẻ trong vườn, gồm 6 tấm, tổng diện tích 12m2, bán cho Cục trưởng Cục Điện nước miền Bắc Đông Dương.

Trong suốt cuộc đời của mình, họa sĩ Nguyễn Gia Trí mong muốn lưu giữ ba bức tranh sơn mài khổ lớn: Hoài niệm xứ Bắc, Trừu tượng, Múa dưới trăng (sáng tác giai đoạn 1968 – 1969).
Ngoài ra, họa sĩ nổi tiếng Nguyễn Gia Trí còn có một số tác phẩm tiêu biểu sau năm 1954 như Hai Bà Trưng, Trận Bạch Đằng, Địa linh hoán tượng, Ba Vua… Ông cũng là một họa sĩ vẽ tranh biếm họa sắc sảo, một họa sĩ đồ họa quan trọng. trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam
Năm 2012, danh họa Nguyễn Gia Trí được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật cho 5 tác phẩm sơn mài gồm “Vườn xuân Trung Nam Bắc”; “Thiếu nữ bên hoa phù dung”; “Bên đầm sen”; “Trong vườn” (8 tấm) và “Cảnh nông thôn”. Tên của ông đã được đặt cho một con đường ở Thành phố Hồ Chí Minh.

Những giá trị tồn tại vĩnh viễn

Trong suốt cuộc đời của mình, các tác phẩm của họa sĩ Nguyễn Gia Trí được các nhà sưu tập trên toàn thế giới yêu thích và đặt hàng. Những bức tranh phổ biến nhất là các tác phẩm sơn mài khổ lớn. Trong những bức tranh sơn mài khổ lớn, ông luôn mở rộng tầm nhìn thẩm mỹ của mình, đặt sự cổ kính bên cạnh sự hiện đại, sang trọng và sang trọng bên cạnh sự giản dị mộc mạc, ý tưởng hy vọng bên cạnh nỗi nhớ khái niệm…

Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của họa sĩ là bức tranh sơn mài khổ lớn “Vườn xuân Trung Nam Bắc”  được tạo ra trong thời kỳ đất nước còn đang ở giữa chiến tranh. Năm 1990, kiệt tác được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mua và tặng cho Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh. Các bức tranh đã được trưng bày và lưu giữ ở đây kể từ đó. Năm 2013, Chính phủ ra quyết định công nhận kiệt tác của họa sĩ Nguyễn Gia Trí là “Bảo vật quốc gia”. Đáng tiếc, trong quá trình trùng tu năm 2017, bức tranh không còn nguyên vẹn, hư hỏng khoảng 30%.
Ngoài ra còn có nhiều tác phẩm có giá trị cao như màn hình “Đồng Mông” hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. “Dọc theo màn chống muỗi” được nghệ sĩ trình bày dưới dạng một bức tranh màn hình sơn mài cỡ lớn thể hiện các bức tranh ở cả hai mặt.

Cùng với đó là nhiều công trình nổi tiếng như: Nhà rông trong làng, Thiếu nữ bên cây du, Hoàng hôn trên sông, phong cảnh Móng Cái… Kiệt tác “Lễ hội năm mới” được chào bán tại buổi đấu giá nghệ thuật. Lần này cũng là bức tranh sơn mài hiếm hoi của họa sĩ Nguyễn Gia Trí.

Theo ông Thái Bá Vân, với nửa thế kỷ hội họa, là một trong ba ngôi sao sáng nhất của nghệ thuật sơn mài hiện đại Việt Nam, Nguyễn Gia Trí được mệnh danh là “cha đẻ của tranh sơn mài hiện đại Việt Nam”. Việt Nam”. Điều này đặc biệt quan trọng khi sơn mài trước đây chỉ được sử dụng làm vật liệu trang trí truyền thống. Và mãi đến những năm 1930 với Nguyễn Gia Trí, Trần Quang Trần, Nguyễn Đô Cung, Phạm Hậu, một chân trời mới với những cơ hội mới mở ra với chất liệu này. Họa sĩ Tô Ngọc Vân viết: “Bằng thử nghiệm của Nguyễn Gia Trí, phong cách hội họa của chúng ta không còn là mỹ thuật nữa. Trong tâm trí, trong tâm hồn của người tạo ra nó, nó đã được nâng lên thành một nghệ thuật cao cấp. Thời kỳ đầu của tranh sơn mài, những cái tên như: Nguyễn Văn Quế, Tạ Ty, Phạm Hậu, Mạnh Quỳnh, Nguyễn Khang, Lê Quốc Lộc, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn… đều tham gia.

Những bức tranh thời kỳ này thường có nét trầm lặng, cổ kính với những đường nét tỉ mỉ, được trau chuốt đến từng chi tiết nhỏ nhất. Tuy nhiên, Nguyễn Gia Trí là một ngoại lệ, anh vượt qua khuôn khổ, mang những đường nét tự do, kiêu ngạo vào tranh của mình. Những đường nét của cuộc sống hàng ngày như những rặng tre, bụi chuối, ao sen,… Bỗng trở nên huyền diệu và khác biệt như thể họ vừa bước ra khỏi truyện cổ tích. Dưới đây là một số tác phẩm để đời của ông:

Một số tác phẩm tiêu biểu của Ông

tranh son mai
Bức tranh Dọc mùng – 1939

tranh son mai 2
Bức tranh Vườn xuân Bắc Trung Nam – Được coi là báu vật quốc gia, hiện thuộc sở hữu của Bảo tàng Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh

tranh son mai 3
Bức tranh Giáng Sinh (Nhà thờ Mai Kha – Sài Gòn)

tranh son mai 4
Bức tranh Múa dưới trăng

tranh son mai 5
Bức tranh Cảnh nông thôn

tranh son mai 6
Bức tranh Thiếu nữ bên hồ sen

tranh son mai 7
Bức tranh Thiếu nữ bên hoa phù dung

Họa sĩ Nguyễn Sáng (1923-1988)

Là một trong  “tứ kiệt” “Nhất Sáng, nhì Nghiêm, tam Liên, tứ Phái”, họa sĩ Nguyễn Sáng là một trong những người có đóng góp to lớn cho hội họa hiện đại Việt Nam. Nguyễn Sang là một trong những họa sĩ Việt Nam sử dụng khéo léo nhiều chất liệu hội họa, trong đó có những chất liệu quan trọng như sơn mài, sơn dầu, lụa,… dấu ấn tài năng. Với tấm lòng yêu thương chân thành của người nghệ sĩ, anh đã dùng nét vẽ của mình để lay động người xem bằng những hình ảnh, màu sắc hiện đại, đơn giản mà không bị khô khan, không sáo rỗng bởi tấm lòng yêu thương chân thành và tài năng của mình. ảo, đa dạng.

Đôi nét về họa sĩ Nguyễn Sáng

Họa sĩ Nguyễn Sáng (1923-1988) sinh ra tại làng Diệu Hòa, tỉnh Mỹ Tho, nay là Tiền Giang, miền Nam Việt Nam. Sinh ra trong một gia đình giáo viên, Nguyễn Sáng tỏ ra có “tài năng bẩm sinh” về hội họa. Ông học tại Trường Mỹ thuật Gia Định từ năm 1936 đến năm 1938, tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm học 1941-1945. Ông sống và làm việc nhiều năm tại số nhà 65 Nguyễn Thái Học, phường Điện Biên, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Từ năm 1936 đến năm 1938, Nguyễn Sáng theo học trường Mỹ thuật Gia Định, từ năm 1941 đến năm 1945 tiếp tục vào Trường Mỹ thuật Đông Dương, khóa XIV. Tháng 8/1945, ông tham gia cách mạng ở Hà Nội. Cuối tháng 12/1946, ông ra chiến khu Việt Bắc, dùng những bức vẽ của mình phục vụ cuộc kháng chiến toàn quốc.

tranh son mai 8
Chân dung họa sĩ Nguyễn Sáng

Sự nghiệp hội họa của họa sĩ Nguyễn Sáng

Năm 1954, cùng với các họa sĩ Tô Ngọc Vân, Sĩ Ngọc, Dương Bích Liên tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ. Chín năm kháng chiến trường tồn, người nghệ sĩ đã đồng hành cùng những năm tháng hào hùng của cuộc chiến tranh cứu nước, Nguyễn Sáng sống như một người lính và ông đã truyền hơi thở nóng bỏng của chiến tranh vào các tác phẩm của mình, với nguồn cảm hứng mạnh mẽ, sống mãi với thời gian. Đây được xem là giai đoạn tài năng nghệ thuật của Nguyễn Sang thăng hoa.
Họa sĩ Nguyễn Sáng gắn bó cuộc đời mình với Hà Nội và tập trung vào hội họa. Ban đầu, Nguyễn Sáng tái hiện lại các tác phẩm về đề tài cách mạng. Sau đó, anh thường vẽ những đề tài đơn giản, gần gũi với cuộc sống hàng ngày, như: Cô gái bên hoa sen, họa sĩ và người mẫu. Nguyên Sáng cũng đam mê vẽ chân dung những người bạn của mình, là những nhà văn, họa sĩ nổi tiếng như Tô Hoài, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tuấn, Dương Bích Liên… và vẽ theo chủ đề 12 con vật trên đĩa sơn mài.

Nguyễn Sáng đã có những đổi mới đáng kể trong lĩnh vực sơn dầu, và đặc biệt là tranh sơn mài. Ông đã thêm vào sơn mài một bảng màu vàng, xanh lá cây và diệp lục với sự phong phú dường như vô tận của biểu hiện. Các tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Sáng là sơn mài và đây là đóng góp lớn nhất của Nguyễn Sáng cho hội họa cả về chất liệu và danh tiếng. Dù là người thành công trong việc khai thác phong cách nghệ thuật hội họa châu Âu hiện đại nhưng ông chưa bao giờ rời bỏ nghệ thuật dân gian truyền thống. Bên cạnh đó, tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng là sự kết hợp hài hòa giữa hiện đại và tinh hoa văn hóa dân tộc.

tranh son mai 9
Tác phẩm “Vật” (1980) – Sơn mài.

Một số tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Sáng 

Được họa sĩ Nguyễn Sáng sáng tạo vào năm 1963, đúng 9 năm sau chiến thắng Điện Biên Phủ, với những nét vẽ mạnh mẽ, chất hóa dẻo hiện đại mà Nguyễn Sang áp dụng với một chất liệu mang tính dân tộc, đó là sơn mài. Sản phẩm “Kết nạp Đảng trong chiến hào Điện Biên Phủ” khắc họa hình ảnh cao quý, giản dị của các chiến sĩ – đảng viên ở tiền tuyến.

tranh son mai 10
Tác phẩm “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ”, sơn mài, 1963

Các tác phẩm của Nguyễn Sáng có tầm cỡ kỹ năng, mang thông điệp lớn về thân phận con người và ẩn chứa một tài năng sáng tạo hiện đại tuyệt vời cho nghệ thuật Việt Nam, sống và vẽ, hấp dẫn và quyết liệt.

tranh son mai 11
Tác phẩm “Thanh niên thành đồng”, sơn mài,1978

Khi nói đến chân dung, ông là bậc thầy trong việc khắc họa, làm nổi bật cả tính cách và đặc điểm của nhân vật. Ngoài ra, ông còn vẽ về nhiều đề tài khác nhau, như phụ nữ và hoa lá (Thiếu nữ bên hoa sen), vẻ đẹp đẹp và cổ kính của các ngôi đền (Tháp Phú Minh), khung cảnh đen tối nhưng hào hùng của núi rừng phong cảnh tuyệt vời (Pác Bó), khung cảnh nông thôn yên bình và bình dị (Những cô gái trong vườn chuối), cảnh trò chơi dân gian (chọi trâu, đấu vật)

tranh son mai 12
Tác phẩm “Chân dung bà Đôn Thư” (1971), sơn dầu

Họa sĩ Nguyễn Sáng đã để lại hàng trăm tác phẩm cho mỹ thuật Việt Nam, với nhiều chủ đề và chất liệu khác nhau. Ông là một trong những họa sĩ có tác phẩm sơn dầu và sơn mài đẹp nhất về chủ đề Chiến tranh Cách mạng Việt Nam. Ngôn ngữ hội họa của ông có tính khái quát cao, khéo léo kết hợp nghệ thuật truyền thống với những thành tựu nghệ thuật hiện đại thế giới, góp phần đổi mới hội họa hiện đại Việt Nam. Với những người yêu nghệ thuật, Nguyễn Sáng mãi mãi là họa sĩ số một trong  “tứ kiệt hội họa” Việt Nam đương đại.

tranh son mai 13
Lớp học đêm (1990)

tranh son mai 14
Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ

Họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm (1922 – 2016)

  • Năm sinh: 20/10/1922 tại Nam Đàn, Nghệ An
  • Năm mất: 15/06/2016 tại Hà Nội
  • Phong cách nghệ thuật: sơn mài truyền thống nhưng không mài, bột màu, giấy dó
  • Các tác phẩm chính: Điện múa cổ, Xuân hồ Gươm, 12 con giáp, Người gác Văn Miếu, Cổng làng Mông Phụ, Đánh cờ dưới bóng tre, Trạm gác, Con nghé, Xuân Hồ Gươm, Nông dân đấu tranh chống thuế, Gióng, Kim Vân Kiều
Nguyễn Tử Nghiêm sinh ra trong một gia đình Nho giáo truyền thống ở Nam Đàn, Nghệ An. Ngay từ nhỏ, anh đã rất thích hội họa nên sau này anh theo anh ra Hà Nội tìm họa sĩ Lê Phổ học vẽ. Ông theo học và nghiên cứu tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.
Nguyễn Tú Nghiêm là sinh viên duy nhất của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương được các thầy cô khuyến khích vẽ sơn dầu. Khi còn là sinh viên năm 3, bức tranh sơn dầu “Người bảo vệ văn miếu” của anh đã gây sốc cho dư luận trong giới nghệ thuật bởi sự táo bạo, mới lạ. Bức tranh hoàn toàn thuyết phục các giáo viên trong ban giám khảo Salon Unique vào năm 1944 và được trao giải nhất. Cũng trong năm đó, các bức tranh “Cổng làng Mông Phụ”, “Chơi cờ dưới bóng tre” của ông được đánh giá cao.

Sau năm 1954, Nguyễn Tú Nghiêm công tác tại Hội Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam. Ông giảng dạy tại Trường Trung cấp Mỹ thuật Việt Nam (nay là Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội). Nguyễn Tự Nghiêm đã sáng tạo ra một số lượng lớn các tác phẩm trong khoảng 70 năm.

Nguyễn Tử Nghiêm vẽ nhiều nhưng tập trung vào một số chủ đề nhất định: “Múa cổ”, “Kiều”, “Mười hai con vật”… nhưng luôn thay đổi cách vẽ, tạo sự mới lạ. Các tác phẩm “Trạm gác” (1948), “Con bê” (1957), “Đêm giao thừa bên hồ gươm” (1957), “Nông dân đấu tranh chống thuế” (1960)… tất cả đều có sự kết hợp sâu sắc giữa cảm xúc và lý trí, truyền thống và hiện đại, thấm đẫm đạo đức phương Đông. Dù ẩn mình trong căn phòng kín nhưng anh vẫn cố gắng ép làn sóng sinh mệnh vào từng nét cọ. Sự cộng hưởng của không gian chùa trong tranh của Nguyễn Tử Nghiêm luôn hiện diện với ngôn ngữ thị giác hiện đại, gợi cảm. Ông cũng rất thành công trong việc khai thác hoa văn và khắc các đình của các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn vào tranh của mình.

Ông đã tiến hành thí nghiệm, nghiên cứu và làm việc trên nhiều vật liệu, như sơn mài, sơn, bột màu và than chì. Nguyễn Tú Nghiêm đã tạo ra một phong cách nghệ thuật đặc biệt bằng cách nghiên cứu nghệ thuật dân tộc và hòa quyện quá khứ với hiện đại. Những bức tranh của ông được các họa sĩ trong và ngoài nước yêu thích và sưu tầm.

Chất liệu mạnh nhất của Nguyễn Tú Nghiêm là sơn mài truyền thống và sau này là bột màu, bột giấy. Chủ đề phổ biến trong tranh của ông là các điệu múa cổ, Thanh Gióng, Kiều và các cung hoàng đạo. Màu sắc yêu thích của anh là màu của dân gian Việt Nam. Ông đã vẽ nhiều bức tranh về Thánh Giồng với hình dáng mạnh mẽ, giống như ông Gióng, một con ngựa, với chất liệu khác nhau và tư thế khác nhau. Ông nói: “Tôi không gắn bó với bất kỳ nghệ thuật nước ngoài nào, tôi chỉ nhìn vào đất nước và thấy trong đất nước có tính nhân văn và hiện đại”.

Ngay cả với những nghệ sĩ vĩ đại của thế giới, không phải ai cũng nhận được sự ngưỡng mộ thống nhất của các thế hệ, đương thời và đàn em. Nhưng Nguyễn Tú Nghiêm hoàn toàn tôn trọng cá tính nghệ thuật của mình. Họa sĩ Đặng Xuân Hòa đầy ngưỡng mộ khi nhắc đến Nguyễn Tử Nghiêm: “Nguyễn Tú Nghiêm với phong cách biểu hiện của mình đã tạo ra một con đường nghệ thuật thực sự vĩ đại, ai nói anh lặp lại tranh của mình là một nhận xét hay. nông cạn. Ông vẽ càng phong phú, tao nhã, Nguyễn Tử Nghiêm càng tao nhã trong nhiều bối cảnh xã hội, chỉ có những họa sĩ vĩ đại mới có thể có phong cách như vậy.

Nghệ sĩ này được xếp vào “Tứ trụ” của thế hệ thứ hai của mỹ thuật hiện đại Việt Nam. Cùng với nhóm đầu tiên của “Tứ trụ” (Nguyễn Gia Trí – Tô Ngọc Vân – Nguyễn Tường Lan – Trần Văn Cẩn), bộ tứ là gương mặt thành tựu tiêu biểu và là phong cách tiêu biểu của hội họa Việt Nam từ thuở sơ khai trên thế giới. Thế kỷ 20 đến nay. Ở tuổi 70, ông chính thức kết hôn với họa sĩ Nguyễn Thu Giang, cũng là con gái của nhà văn Nguyễn Tuấn.
Nguyễn Tú Nghiêm luôn im lặng và cẩn thận như vậy. Nhưng điều này không khiến anh bị lãng quên. Ngược lại, ông luôn được đánh giá là một trong những nghệ sĩ xuất sắc nhất của làng nghệ thuật Việt Nam. Ông bỏ qua tất cả sự hối hả và nhộn nhịp trong cuộc sống và sống trọn vẹn bằng hội họa.

Nguyễn Tú Nghiêm, cả đời đã sống xứng đáng với danh dự của một họa sĩ nổi tiếng. Tài năng của ông không chỉ khác với những thành công rực rỡ trong và ngoài nước, mà sự sáng chói và tầm ảnh hưởng của ông đã vượt qua nhiều thế kỷ, vượt qua quỹ cuộc sống của ông để trở thành bất tử trong sự tôn trọng và thống nhất của các quốc gia. thế hệ nghệ sĩ. Nguyễn Tú Nghiêm cũng là họa sĩ hiếm hoi của mỹ thuật Việt Nam có bảo tàng riêng. Ông may mắn không chỉ vì sống lâu và sáng suốt ở tuổi gần một thế kỷ, mà còn bởi suốt 23 năm qua, Nguyễn Tú Nghiêm đã sống trong tình yêu với người bạn đời trẻ hơn gần 30 tuổi, xinh đẹp và tận tâm. Chính nhờ cô mà anh duy trì một phong cách sáng tác bền bỉ. Nguyễn Tú Nghiêm ít lời, ít tuyên bố, chỉ có một lần phát biểu tại một hội thảo về quan điểm nghệ thuật của mình: “Khai thác, đi đến tận cùng truyền thống, sẽ gặp hiện đại”.

Những tác phẩm nổi tiếng của Họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm

tranh son mai 15
Đêm Giao Thừa – Nguyễn Tư Nghiêm
tranh son mai 16
Điệu mùa cổ – 1970

tranh son mai 17
Điệu múa cổ – 1983

tranh son mai 18
Ông Gióng – 1990

tranh son mai 19
Con nghé quả thực – Nguyễn Tư Nghiêm – 1957

Họa sĩ Phan Kế An (1923 – 2018)

Họa sĩ Phan Kế An, một trong những cây đại thụ của hội họa Việt Nam, một họa sĩ hiếm hoi còn sót lại của thế hệ họa sĩ thời Đông Dương, vừa qua đời lúc 10h ngày 22/1/2020. Năm 2018 do tuổi già và yếu đuối, 95 tuổi…
Họa sĩ Phan Kế An, một trong những cây đại thụ của hội họa Việt Nam, một họa sĩ hiếm hoi còn sót lại của thế hệ họa sĩ thời Đông Dương, vừa qua đời lúc 10h ngày 22/1/2020. 2018 do tuổi già và sức khỏe yếu, cuộc sống 95 tuổi.

Họa sĩ Phan Kế An sinh ngày 20/3/1923, sinh tại làng Mông Phụ, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, là con trai của Đại bộ trưởng Khâm Sài Phan Kế Toại, từng giữ chức Bộ trưởng Nội vụ, Phó Thủ tướng Chính phủ. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Anh học lớp 18 tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (École des Beaux- Arts de l’Indochine), nay là Đại học Mỹ thuật Việt Nam – 42 Yết Kiêu, Hà Nội. Ông là một trong những hội viên đầu tiên của ngành hội họa – Hội Mỹ thuật Việt Nam từ năm 1957…
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, họa sĩ Phan Kế Ẩn tham gia hoạt động tại chiến khu Việt Bắc cùng với các họa sĩ kỳ cựu lúc bấy giờ là Mai Văn Nam, Tạ Thục Bình, Vĩnh Noan, Mai Văn Hiền, Lê Pha, Kim Đồng, Phan Thông, Nguyễn Tú Nghiêm, Tôn Đức Lương, Nguyễn Văn Thiên…

Họa sĩ Phan Kế An có tài năng ở nhiều thể loại và chất liệu hội họa như: sơn mài, sơn dầu, lụa, khắc gỗ,… Những bức tranh của ông thường miêu tả hiện thực, cuộc sống, sức đề kháng, sự ra đời, v.v. hoạt động của người dân vùng núi trung du. Nhớ một chiều Tây Bắc – 70x112cm (1955); Gặt ở Việt Bắc – 60x50cm (1955); Những đồi cọ 150cmx250cm (1965).

tranh son mai 20
Nhớ một chiều Tây Bắc, 1955.

Họa sĩ Phan Kế Ẩn thành công với thể loại tranh sơn mài, sơn dầu, nổi tiếng nhất là bức tranh “Nhớ một chiều Tây Bắc” vẽ mùa đông năm 1950, thời điểm ông đi kháng chiến làm đặc vụ. Bức tranh đã truyền cảm hứng cho họa sĩ – nhà thơ Đoàn Việt Bắc sáng tác thơ và nhạc sĩ Vũ Thành đặt nhạc cho ca khúc “Nhớ một chiều không gian Tây Bắc”. Nhưng đặc biệt nhất, ông là họa sĩ đầu tiên vẽ chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc và có khoảng 20 tác phẩm về Người.

tranh son mai 21
Hồ Chủ tịch ở Việt Bắc, tháng 11-1948.

Ông cũng là họa sĩ vẽ tranh biếm họa, từng cộng tác với nhiều tờ báo lúc bấy giờ như Báo Sự Thật, Báo Nhân Dân, Báo Quân đội nhân dân… dưới bút danh Phan Kiền. Ngoài nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương Độc lập hạng Ba; Huân chương Kháng chiến hạng Nhì; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hạng Nhất; Huy chương Vì sự nghiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam; Huy chương Vì sự nghiệp mỹ thuật Việt Nam, ông cũng được tặng thưởng Huy chương vì sự nghiệp của Báo Nhân Dân.
Do tuổi cao và sức khỏe yếu, ông qua đời lúc 10h30 sáng nay ngày 21/1 (tức ngày 5/12 năm Dậu). Lễ viếng nghệ sĩ được tổ chức từ 7h30 đến 8h45 tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Lễ tang được tổ chức cùng ngày tại Dương Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội.

Họa sĩ Lê Quốc Lộc (1918-1987)

Lê Quốc Lộc là họa sĩ được đánh giá cao về chuyên môn và sự sáng tạo. Các tác phẩm của ông luôn chứa đựng truyền thống văn hóa của dân tộc, đồng thời mang hơi thở của thời đại trong từng tác phẩm. Anh sở hữu nhiều tác phẩm đạt giải thưởng lớn về nghệ thuật trong và ngoài nước.

Họa sĩ Lê Quốc Lộc chuyên sáng tác tranh sơn mài bằng kỹ thuật truyền thống, với sự khai thác sáng tạo, cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc về cuộc kháng chiến, cách mạng. Ông có kiến thức chuyên sâu về thủ công mỹ nghệ, mỹ thuật truyền thống và có nhiều đóng góp cho sự hình thành và phát triển của ngành mỹ thuật Việt Nam.

tranh son mai 22
Chân dung họa sĩ Lê Quốc Lộc

Đôi nét về họa sĩ Lê Quốc Lộc 

Họa sĩ Lê Quốc Lộc sinh ngày 20/10/1918, mất ngày 8/5/1987 tại Phùng Hưng, Khoái Châu, Hưng Yên. Ông tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Đông Dương, khóa 1937 – 1942. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Lê Quốc Lộc bắt đầu hoạt động cách mạng và gia nhập Việt Minh. Sau cách mạng, từ năm 1945 đến năm 1946, ông công tác tại Ban Tuyên giáo miền Bắc. Từ năm 1947 đến năm 1954, ông được phân công phụ trách Bộ môn Hội họa, Ban Tuyên giáo Liên khu III. Năm 1959, ông được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội. Ngoài ra, từ năm 1966, ông còn là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn hóa dân gian Việt Nam, nhiệm kỳ I.

Chủ đề trong các tác phẩm của Lê Quốc Lộc chủ yếu là kháng chiến và cách mạng. Họa sĩ Lê Quốc Lộc đặc biệt quan tâm đến chất liệu sơn mài. Anh đặc biệt coi trọng nội dung trong từng tác phẩm và hướng tới tính thẩm mỹ cao. Chính vì vậy, các tác phẩm của anh luôn có góc nhìn mới, đánh dấu sự sáng tạo cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện. Nhiều giải thưởng, huy chương được trao trong suốt cuộc đời nghệ thuật đã phần nào chứng minh tài năng của ông.

tranh son mai 23
Tranh sơn mài phong cảnh (2 tấm)

Thành tựu đạt được trong cuộc đời sáng tác nghệ thuật của họa sĩ Lê Quốc Lộc 

Trong quá trình công tác, Lê Quốc Lộc được Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì và Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất. Ngoài ra còn có huy chương cho sự nghiệp văn học nghệ thuật Việt Nam và huy chương cho sự nghiệp mỹ thuật Việt Nam.
Bên cạnh đó, các tác phẩm của anh luôn được đánh giá cao và đạt nhiều giải thưởng quan trọng trong nước và quốc tế:
Triển lãm tranh: Giải nhất 1951
Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc: Giải Nhất năm 1960; Vị trí thứ hai vào các năm 1955, 1958 và 1962
Triển lãm Mỹ thuật và Thủ công mỹ nghệ của Cộng hòa Dân chủ Đức: Giải nhất 1978; Giải nhì năm 1974
Đặc biệt, sau khi mất, Lê Quốc Lộc được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật năm 2000 với các tác phẩm: Qua bản cũ (sơn mài, 1957), Ánh sáng đến (sơn mài, 1957), Tiêu thổ kháng chiến (sơn mài, 1958), Giữ lấy hòa bình (sơn mài, 1962) và Từ trong bóng tối (sơn mài, 1982).
tranh son mai 24
Tác phẩm Qua bản cũ (1958) Sơn mài. Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam

Nét truyền thống văn hóa vào từng tác phẩm của Lê Quốc Lộc  

Trong số các tác phẩm tiền cách mạng, bức tranh “hội chùa” (1939) được ghép từ 4 tấm sơn, thể hiện không gian lễ hội làng quê sinh động trong thời kỳ Tây hóa. Vẽ tranh với phong cách mảng, đơn giản nhưng cô đọng theo phong cách sơn mài. Bức tranh này hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

tranh son mai 25
Tác phẩm Hội chùa (1939)

Tác phẩm “từ trong bóng tối” do ông sáng tác năm 1982 là một tác phẩm đặc biệt về chất liệu sơn mài. Với bố cục vuông vức, mạnh mẽ, hiện đại, sắc nét, tối và sáng, những vùng sáng và tối thực sự ấm áp và ngọt ngào, thể hiện sức sống mãnh liệt của một dân tộc kiên cường và bất khuất.

tranh son mai 26
Tác phẩm Từ trong bóng tối – Sơn mài

Trong những năm tháng hòa bình ở miền Bắc, Lê Quốc Lộc dành tâm huyết nghiên cứu, sáng tạo tranh sơn mài, cả về chất liệu, kỹ thuật, nội dung của thời đại mới của đất nước. Đây cũng là “Thời kỳ hoàng kim của hội họa sơn mài Việt Nam – thời kỳ (1957-1962)” của thế kỷ 20. Năm 2000, họa sĩ Lê Quốc Lộc được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh lần thứ hai cho các tác phẩm: Qua bản cũ, Ánh sáng đến, Cuộc kháng chiến, Giữ hòa bình, Từ bóng tối.

tranh son mai 27
Tác phẩm Giữ lấy hòa bình (1960) – Sơn mài.

Một chặng đường dài của nghệ thuật thị giác Lê Quốc Lộc đã dành để sáng tác tranh sơn mài. Bằng cách kế thừa truyền thống, và khám phá, tạo ra những điều mới mẻ với những bức tranh với chủ đề hiện thực đã góp phần vào thành tựu của ông, với sự phong phú của các tác phẩm của ông và sự xuất hiện của nghệ thuật sơn mài, cho nền. Mỹ thuật Việt Nam.

tranh son mai 28
Lê Quốc Lộc – Qua bản cũ – 1958, sơn mài. Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam

Họa sĩ Nguyễn Khang (1911 – 1989)

Họa sĩ Nguyễn Khang sinh ngày 16/12/1911, quê ở làng Yên Thái, nay thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội.
Năm 19 tuổi, Nguyễn Khang thi đỗ khóa 6 (1930-1935) Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương và là người duy nhất thành công trong khóa học này.
Nguyễn Khang là một trong những họa sĩ Việt Nam đã áp dụng thành công thể loại tranh sơn mài vào hội họa Việt Nam. Ông là Hiệu trưởng Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp (1962-1974).
Điểm độc đáo trong nghệ thuật vẽ tranh sơn mài của ông là ông đã tìm ra bí quyết nghiền vàng bạc (quỳ vàng) thành cám vàng rồi dùng dây (rây mắt nhỏ) rắc đều cám vàng lên bề mặt sơn, sau đó xay đi. Kỹ thuật này làm cho tranh sơn mài phong phú về chất liệu và màu sắc, không chỉ có màu tối đơn điệu của vật liệu sơn mài.
Những thí nghiệm thành công đó đã giúp họa sĩ Nguyễn Khang sáng tạo ra những tác phẩm độc đáo và liên tục tham gia các triển lãm trong nước và quốc tế, giành danh hiệu (Triển lãm Mỹ thuật Kỹ thuật Paris 1937). ).
Năm 1939, Ban tổ chức triển lãm San Francisco (Mỹ) đã mời họa sĩ tham gia ban giám khảo, nhưng tiếc là ông không thể tham dự.
Tác phẩm của họa sĩ Nguyễn Khang và những người đương thời gây tiếng vang tại triển lãm mỹ thuật của 12 nước xã hội chủ nghĩa tổ chức tại Liên Xô.
tranh son mai 29
(Nguồn: dangcongsan)
Tác phẩm“Bác Hồ về thăm bản làng” ông vẽ năm 1958 được Nhật Bản mua và trưng bày tại Bảo tàng Nghệ thuật châu Á Fukuoka.
Họa sĩ Nguyễn Khang tham gia Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tại Hà Nội. Trong cuộc kháng chiến toàn quốc (năm 1946), ông cùng nhiều nhà văn, văn nghệ sĩ vào Việt Bắc tham gia Đoàn Văn hóa Kháng chiến.
Giai đoạn 1949-1951, ông được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng Trường Mỹ thuật kháng chiến liên vùng X; 1951-1957 giảng dạy tại Cơ sở Trung tâm Việt Nam ở Nam Ninh, Trung Quốc.
Về nước, họa sĩ Nguyễn Khang tham gia thành lập Hội Mỹ thuật Việt Nam và được bầu làm Ủy viên Ban Thường vụ Hội Mỹ thuật Việt Nam, khóa I (1957).
Năm 1959, ông được bổ nhiệm làm Phó Hiệu trưởng Trường Trung cấp Mỹ thuật Việt Nam (tiền thân của Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội, nơi ông làm Hiệu trưởng từ năm 1962-1974). Ở vị trí đó, ông có công lớn trong việc đào tạo đội ngũ nghệ sĩ mỹ thuật ứng dụng để mang cái đẹp vào cuộc sống
Trong suốt cuộc đời của mình, họa sĩ Nguyễn Khang vinh dự được Đảng và Nhà nước giao hoàn thành thiết kế trang trí mai táng cấp nhà nước và năm 1969, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, ông được bổ nhiệm làm Trưởng Ban Trang trí Lễ tang Quốc gia. Dân tộc. Chân dung Bác Hồ tại quốc tang rộng 30m2 cũng do họa sĩ Nguyễn Khang vẽ.
Ngoài ra, trong nhiều năm, họa sĩ Nguyễn Khang còn được giao nhiều trọng trách như là trưởng phòng trang trí triển lãm trong 25 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; thiết kế trang trí Đại hội Đảng lần thứ 4 và thứ 5; và là tác giả của trang bìa và logo của tạp chí Cộng sản.
Họa sĩ Nguyễn Khang sáng tác không nhiều, chỉ có gần 40 tác phẩm, chủ yếu ở khổ lớn. Nhưng các tác phẩm của ông luôn được thể hiện tinh tế, giàu tính thẩm mỹ, đầy tình cảm với cuộc sống và con người Việt Nam.
Ông mất ngày 15/11/1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh, khi đang sáng tác ba tác phẩm “Người đẹp hoa thơm,” “Vinh quy bái tổ” và “Những người săn hổ.
Năm 2000, họa sỹ Nguyễn Khang được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho chùm tác phẩm “Đánh cá đêm trăng” (năm 1943), “Hòa bình và hữu nghị” (năm 1958), “Hành quân qua suối” (năm 1962) và “Gia đình mục đồng” (năm 1982)./.
Hội đồng Giải thưởng Hồ Chí Minh nhận xét: Các tác phẩm của họa sĩ Nguyễn Khang là những tác phẩm sơn mài xuất sắc với vẻ đẹp tinh tế, sâu sắc, thể hiện những tư tưởng tốt đẹp của họa sĩ về đất nước, con người. trong cuộc kháng chiến. Trong chiến tranh, ông đã nghiên cứu chuyên sâu về mỹ thuật trang trí và có những đóng góp to lớn cho giáo dục và xây dựng ngành mỹ thuật ở nước ta.Mường mến yêu – 1939; Ngưu Lang – Chức nữ – 1943; Nguyễn Trãi – Thị Lộ – 1944; Ông nghè vinh quy – 1944; Bốn con ngựa và hai bé mồ côi – 1944; Thú vui nông thôn – 1944 và tiêu biểu là tác phẩm Đánh cá đêm trăng – 1945 được lưu giữ, bảo quản và trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
tranh son mai 30
Đánh cá đêm trăng – Nguyễn Khang – 1943

 

tranh son mai 31
Hành quân qua suối – Nguyễn Khang – 1962 – Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam

tranh son mai 32
Hòa bình hữu nghị – Nguyễn Khang

Họa sĩ Trần Đình Thọ (1919 – 2010) – Tranh sơn mài nổi tiếng Việt Nam

  • Năm sinh: 02/10/1919 tại Hưng Yên
  • Năm mất: 02/2011
  • Phong cách nghệ thuật: Tranh sơn mài, sơn dầu, làm báo
  • Các tác phẩm chính: Tre (1957), Ra đồng (1961), Nhà sàn Bác Hồ (1971), Đêm hành quân (1974), Kéo pháo Điện Biên (1994), Cấy ở Miền núi (1993)

Trần Đình Thọ là một giáo sư, họa sĩ, giáo viên nổi tiếng. Ông tốt nghiệp khóa cuối cùng của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1939-1944). Theo nhiều nhà nghiên cứu, họa sĩ Trần Đình Thọ thuộc thế hệ họa sĩ cao cấp của nghệ thuật thị giác cách mạng. Nhắc đến Người là nhớ đến một họa sĩ của cách mạng và nhân dân. Ông là hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam từ năm 1957. Trong quá trình công tác, ông được phong tặng danh hiệu Giáo sư, danh hiệu Nhà giáo Nhân dân. Họa sĩ Trần Đình Thọ đã phục vụ chuyên nghiệp từ những ngày đầu của Cách mạng Tháng Tám, và là người có công trong sự nghiệp đào tạo các thế hệ làm mỹ thuật ở Việt Nam.

tranh son mai 33
Giáo sư Trần Đình Thọ

Trần Đình Thọ là một trong những họa sĩ đi theo cách mạng từ những ngày đầu. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Trần Đình Thọ tích cực tham gia các hoạt động của Hội Văn hóa Cứu quốc, vẽ tranh cho Báo Tiền Phong, báo Giải Phóng, sau đó là tuần báo Sự thật và Nhà xuất bản Việt Nam. Hội Văn hóa Cứu quốc. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra, ông ra chiến khu lo công tác in ấn cho Báo Trung ương Cửu Quốc. Tiểu sử của ông viết: Họa sĩ Báo Cứu quốc Trung ương từ năm 1946 đến năm 1953. Ngày 15/6/1947, họa sĩ Trần Đình Thọ được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nhân dịp Đại hội Mỹ thuật toàn quốc năm 1948, Báo Cửu Quốc và họa sĩ Trần Đình Thọ đã tổ chức Triển lãm Mỹ thuật lớn đầu tiên nhằm giới thiệu các tác phẩm của các nghệ sĩ trong Chiến khu Việt Bắc. Khi nói về những đóng góp của họa sĩ Trần Đình Thọ trong giai đoạn này, giai đoạn ông làm báo cho Trung ương Cửu Quốc, phải kể đến một sự kiện lịch sử: Đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức vào tháng 2/1951 tại Chiêm Hòa (Tuyên Quang) và ông là họa sĩ trang trí chính cho Đại hội. Cùng năm đó, 1951, ông tổ chức triển lãm mỹ thuật tại căn cứ cách mạng Chiêm Hoa. Từ năm 1953, ông được phân công phụ trách mỹ thuật của Doanh nghiệp Quốc gia Việt Nam. Sau đó, từ năm 1955, ông giữ chức vụ Phó Hiệu trưởng và sau đó là Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam (nay là Đại học Mỹ thuật Việt Nam) và giữ kỷ lục hiệu trưởng lâu năm nhất của trường này. từ năm 1964 đến năm 1984, tròn 20 tuổi).

Những bức tranh sơn mài của ông được sáng tác công phu và hoàn chỉnh theo phong cách truyền thống, phản ánh quá trình sản xuất, chiến đấu và phong cảnh của quê hương. Nhiều bức tranh của ông có chất lượng nghệ thuật cao và được công chúng biết đến rộng rãi. Trần Đình Thọ đã sử dụng và thành công với nhiều chất liệu: kem dưỡng da, lụa, sơn mài, sơn dầu, chạm khắc gỗ. Thành công lớn nhất của ông là về chủ đề phong cảnh và nông thôn. Nhiều tác phẩm của ông đã được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Liên Xô (cũ), Tiệp Khắc (cũ), Bảo tàng Phương Đông, Bảo tàng Nghệ thuật Bratislava (Cộng hòa Séc) và trong nhiều bộ sưu tập tư nhân. cá nhân ở Pháp, Ý, Nhật Bản, Ba Lan, Đức…

Có thể nói, trong một thời gian dài 30 năm (kể từ khi làm Phó Hiệu trưởng), họa sĩ Trần Đình Thọ đã chịu trách nhiệm đào tạo mỹ thuật cho đất nước, nhiều nghệ sĩ thị giác nổi tiếng thuộc thế hệ thứ ba và thứ ba của mỹ thuật hiện đại Việt Nam đã trưởng thành. Các học trò, đồng nghiệp của ông đều kính trọng và ngưỡng mộ ông như một người thầy gương mẫu, một nhà lãnh đạo, một nhà quản lý chính xác và sáng tạo, đồng thời là một người sống trong sáng, không hư hỏng, rất hiền lành. có tình cảm.
Nhạc sĩ Xuân Oanh viết hồi ký khi còn sống về những ngày ông phụ trách trang trí báo Cửu Quốc với họa sĩ Trần Đình Thọ: “Năm đó, tôi là người trẻ nhất trong tòa soạn, làm mọi việc được giao: in ấn, giao báo, viết bài… Minh họa, lúc đó tôi chưa có camera, tôi và anh Trần Đình Thọ thay phiên nhau vẽ minh họa cho báo. Mỗi lần in báo, cả cơ quan đều vui mừng như chào đón một đứa trẻ mới chào đời”.
Họa sĩ Trần Đình Thọ qua đời đầu năm 2011, khi chỉ vài tháng sau là kỷ niệm 60 năm Đại hội Đảng lần thứ II, trong đó ông là họa sĩ trang trí; Với thế giới mỹ thuật của đất nước, ông “để lại bóng tre”, để lại logo Nhà xuất bản Sự thật mà ông thiết kế như một họa sĩ, để lại nhiều bức tranh bậc thầy. Cũng tiếc nuối khi chỉ một năm sau khi ông qua đời, báo Đại Đoàn Kết đã tổ chức lễ kỷ niệm 70 năm số đầu tiên của Cửu Quốc – tờ báo trong giai đoạn lịch sử mà ông đã đóng góp công sức của mình.

Một số tác phẩm của Họa sĩ Trần Đình Thọ – Tranh sơn mài nổi tiếng Việt Nam

tranh son mai 34
“Hội ý” 1985, khắc gỗ

 

tranh son mai 35
“Hành quân đêm” 1974, sơn mài

 

tranh son mai 36
“Tre” 1957

tranh son mai 37
“Cấy” 1994, 80x80cm, sơn dầu

tranh son mai 38

tranh son mai 39
“Cau và tre” 1983, 34x31cm, khắc cao su

tranh son mai 40
“Đôi chim bồ câu” 1991, 37x29cm, khắc cao su
tranh son mai 41
“Phong cảnh trung du” thuốc nước

Họa sĩ Nguyễn Đức Nùng – Tranh sơn mài nổi tiếng Việt Nam

  • Năm sinh: 10/03/1914
  • Năm mất: 04/01/1983 tại Hà Nội
  • Phong cách nghệ thuật: Ông sáng tác trên nhiều chất liệu nhưng tiêu biểu là tranh sơn mài với kỹ thuật truyền thống. Các tác phẩm sơn mài của ông chủ yếu là đề tài cách mạng, kháng chiến và sản xuất.
  • Các tác phẩm chính: Quay tơ dệt vải, Bình minh trên nông trang, Nguyễn Du đi săn, Mùa mưa trên công trường, Đế quốc Mĩ lại thử bom nguyên tử, Kết nạp Đảng trong tù.
Nguyễn Đức Nùng (sinh ngày 10/3/1914, mất ngày 4/1/1983 tại Hà Nội) sinh tại xã Phú Lâm, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội. Ông tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Đông Dương, khóa IX (1933-1938); Hội viên chi hội hội tranh của Hội Mỹ thuật Việt Nam từ năm 1957. Ông tham gia cách mạng từ ngày đầu tiên của cuộc tổng khởi nghĩa và giữ các chức vụ: Trưởng phòng vẽ tranh của Liên minh Văn hóa Cứu quốc tỉnh Thừa Thiên Huế (1945-1946), Tạp chí Chống xâm lược Biên của Hội Liên Việt Khu IV (1947-1950), gia nhập quân đội làm báo của Tiểu đoàn 304 (1947-1954), Sĩ quan Mỹ thuật (1954-1956), Giảng viên, Trưởng khoa Đại học Mỹ thuật Hà Nội (1956-1973) và Viện trưởng Viện Mỹ thuật Việt Nam (1973-1981).
Nguyễn Đức Nùng là họa sĩ có nhiều đóng góp cho việc nghiên cứu mỹ thuật Việt Nam, ông làm việc trên nhiều chất liệu, nhưng điển hình là tranh sơn mài với kỹ thuật truyền thống. Các tác phẩm sơn mài của ông chủ yếu viết về đề tài cách mạng, kháng chiến và sản xuất, theo phong cách hiện thực với nhiều sự tìm tòi, thử nghiệm, sáng tạo, khái quát và có giá trị nghệ thuật cao. Nói về câu chuyện đặt tên cho bức tranh, có rất nhiều ý kiến và lập luận khác nhau. Nhưng với riêng họa sĩ Nguyễn Đức Nùng, anh dường như thích sự đơn giản, giản dị trong từng cái tên.
Các tác phẩm của họa sĩ Nguyễn Đức Nùng được trao Giải thưởng Triển lãm Mỹ thuật Quốc gia năm 1958 và 1976. Năm 2001, họa sĩ Nguyễn Đức Nưng được tặng Giải Nhất Nhà nước về Văn học Nghệ thuật cho các tác phẩm của mình. Sản phẩm: Quay tơ dệt vải – Sơn mài (1957), Bình minh trên nông trang – Sơn mài (1958), Mùa mưa trên công trường – Sơn mài – (1963), Đế quốc Mĩ lại thử bom nguyên tử – Sơn mài – (1958), Nguyễn Du đi săn – Sơn mài – (1973), Kết nạp Đảng trong tù – Sơn mài – (1968).

Một số tác phẩm của Họa sĩ Nguyễn Đức Nùng

tranh son mai 42
“Nguyễn Du đi săn” 1973, sơn mài

 

tranh son mai 43
“Quay tơ dệt vải” 1957, sơn mài

 

tranh son mai 44
“Bình minh trên nông trang” 1958, sơn mài
tranh son mai 45
“Tình mẫu tử” 1967, Sơn mài

 

tranh son mai 46
“Đi chợ vùng cao” – Sơn mài (1967)

Nguyễn Đức Nùng là họa sĩ có nhiều đóng góp cho việc nghiên cứu và phát triển mỹ thuật Việt Nam, ông tác phẩm với nhiều chất liệu, nhưng tiêu biểu nhất là sơn mài truyền thống. Tác phẩm hội họa của ông chủ yếu đề cập đến các chủ đề cách mạng, kháng chiến và sản xuất theo phong cách hiện thực với nhiều khám phá, khám phá, nghiên cứu, thí nghiệm, sáng tạo, khái quát hóa và giá trị. nghệ thuật cao.

tranh son mai 47
Xuân trên rẻo cao – Phan Quang Tuấn
tranh son mai 48
Nắng chiều – Phan Quang Tuấn

tranh son mai 49
Bình minh – Nguyễn Trường Linh

tranh son mai 50
Hà Nội có cầu Long Biên – Nguyễn Trường Linh

tranh son mai 51
Lai Châu – Nguyễn Kim Đồng

tranh son mai 52
Nhịp điệu – Đặng Phương Thảo

tranh son mai 53
Trong vườn – Đặng Chính Trung

Ngoài các tác giả kể trên, một nhóm họa sĩ (hiện 52 thành viên) mang tên “Nhóm họa sĩ Sơn Tạ” cũng đã góp phần rất lớn trong việc tạo nên hình ảnh mới cho thể loại tranh sơn mài nước nhà. Một số cái tên có thể kể đến như: Nguyễn Trường Linh, Phan Quang Tuấn, Trần Tuấn Long, Chu Việt Cường, Nguyễn Kim Đông, Nguyễn Đức Dân, Trần Ngọc Hùng, Đặng Phương Thảo, Nguyễn Văn Bảy, Đặng Chính Trung… và nhiều họa sĩ khác.

Đánh giá bài viết

Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.